
ĐÁ TRỔ BÔNG
Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi.
Nắng hệt một chảo mật nấu sôi, và những con người bé nhỏ ngụp lặn trong ấy chín nhừ, mặt mày đỏ lựng. Thỉnh thoảng Khờ dừng lại để chờ tôi lúc này hồng hộc thở, bước từng bậc đá bằng đôi chân không biết của ai. Dù nó đã lên xuống núi mười bảy lần trong ngày, gánh nước uống cho chục ngoài hộ dân sống trên ấy. Hỏi Khờ sắp tới nơi chưa, nó kêu xíu nữa. Chữ “xíu” không làm tôi mừng, vì biết mình còn trèo nhiều dốc đá mới chạm chân đỉnh núi trọc bon không cây cối.
“Đám đá này mơi mốt trổ bông”, Khờ nói.
Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn (2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ đặt đâu ngồi đó. hắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu (3) nhờ uống nước trong dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.
Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.
Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.
Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”
Tới ông trời còn không bứng nổi thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.
Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ, nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi.
Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.
Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.
Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.
Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng kh
ần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu. Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.
Phần I – Đọc Hiểu
Câu 1: Xác định ngôi kể trong truyện
Truyện “Đá trổ bông” được kể bằng ngôi thứ nhất. Điều này được thể hiện rõ qua việc người kể sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” xuyên suốt tác phẩm, chẳng hạn: “thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi”, “Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ”, “Hỏi Khờ sắp tới nơi chưa”.
Câu 2: Chi tiết chứng minh không ai có thể lay chuyển niềm tin của Khờ
Có nhiều chi tiết trong truyện chứng minh niềm tin bất diệt của Khờ:
- Sự kiên trì chờ đợi: Suốt ba mươi năm, Khờ luôn sống trên núi chờ đá trổ bông để mẹ về đón, chỉ rời núi duy nhất một lần khi bị sét đánh
- Phản ứng khi tỉnh dậy: Sau khi bị sét đánh ngất đi, câu đầu tiên Khờ nói khi tỉnh dậy là “đá trổ bông chưa?”
- Phản bác khi bị thuyết phục: Khi dân núi Xanh giải thích đá bị sét đánh không thể trổ bông, Khờ phản đối: “vậy mấy cục đá hóng bị trời đánh thể nào cũng có bông”
- Hành động tìm kiếm: Từ đó Khờ leo trèo khắp núi, lo rằng “bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới”
Câu 3: Biện pháp tu từ liệt kê và tác dụng
Biện pháp liệt kê: “cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió”.
Tác dụng:
- Nhấn mạnh phẩm chất: Làm nổi bật sự chăm chỉ, chịu khó và lòng hay giúp đỡ của Khờ
- Hiệu quả diễn đạt: Phép liệt kê giúp việc miêu tả trở nên ngắn gọn, súc tích nhưng đầy đủ
- Tạo nhịp điệu: Chuỗi hành động được sắp xếp liên tiếp tạo ra nhịp điệu mạnh mẽ, ấn tượng
Câu 4: Nhận xét về nhân vật Khờ
Khờ là một nhân vật phức tạp với nhiều tầng nghĩa:
Về hoàn cảnh:
- Là người khờ khạo, ngốc nghếch với trí tuệ của trẻ con năm bảy tuổi trong thân xác người ba mươi
- Bị mẹ bỏ rơi trên núi từ năm chín tuổi, sống nhờ sự giúp đỡ của cư dân
Về tính cách:
- Hiền lành, chất phác, chăm chỉ và hay giúp đỡ mọi người
- Luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp và khao khát tình mẫu tử
- Kiên cường, không bao giờ than vãn dù gặp khó khăn
Ý nghĩa: Khờ tượng trưng cho những mảnh đời bất hạnh nhưng vẫn giữ được lòng tin và sự trong sáng.
Câu 5: Suy nghĩ về niềm tin trong cuộc sống
Từ câu chuyện về Khờ, có thể rút ra những suy ngẫm sâu sắc về niềm tin:
Mặt tích cực của niềm tin:
- Giúp con người vượt qua mọi trở ngại, sống có mục tiêu và chí hướng
- Mang lại tinh thần lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống
- Tạo động lực để vượt lên chính bản thân mình
Mặt tiêu cực của niềm tin mù quáng:
- Khiến con người trốn tránh, không chấp nhận sự thật
- Đưa người ta vào trạng thái mê muội trong những ảo tưởng
- Có thể trở thành “dây trói bền dai” như trường hợp của Khờ
Bài học: Cần có niềm tin để sống nhưng phải biết cân bằng giữa tin tưởng và lý trí, giữa hi vọng và thực tế.
Phần II – Viết
Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận phân tích nhân vật Khờ (khoảng 200 chữ)
Phương pháp làm bài
Xác định yêu cầu:
- Hình thức: Đoạn văn nghị luận
- Dung lượng: Khoảng 200 chữ
- Nội dung: Phân tích nhân vật Khờ trong “Đá trổ bông”
Cấu trúc đoạn văn:
- Câu chủ đề: Giới thiệu về nhân vật Khờ
- Câu triển khai: Phân tích các đặc điểm của nhân vật
- Câu kết luận: Đánh giá ý nghĩa của nhân vật
Hệ thống ý để triển khai
Hoàn cảnh bất hạnh:
- Bị mẹ bỏ rơi trên núi từ năm 9 tuổi
- Có trí tuệ của trẻ con 5 tuổi trong thân xác người 30 tuổi
- Sống nhờ sự nuôi dưỡng của dân núi
Tính cách tốt đẹp:
- Hiền lành, chất phác, chăm chỉ1
- Biết ơn và đền đáp lại sự nuôi dưỡng: “nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn”1
- Luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp và kiên cường trước nghịch cảnh1
Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Cách kể chuyện độc đáo với ngôi thứ nhất
- Ngôn ngữ đậm màu sắc Nam bộ, mộc mạc, chân chất
Nhân vật Khờ trong truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư là một hình tượng đặc biệt, mang đậm tính nhân văn và gợi nhiều suy ngẫm. Khờ, đúng như tên gọi, là một chàng trai ba mươi tuổi nhưng chỉ có trí tuệ của trẻ con năm bảy tuổi, bị mẹ bỏ rơi trên núi từ nhỏ với lời hứa hẹn rằng khi đá trổ bông, mẹ sẽ quay về đón. Số phận bất hạnh không làm Khờ gục ngã, mà ngược lại, anh vẫn giữ một tâm hồn trong sáng, hiền lành và chất phác. Anh luôn biết ơn những người dân núi đã cưu mang mình, sẵn sàng làm mọi việc nặng nhọc mà không một lời than vãn, từ gánh nước, kiếm củi đến giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn. Niềm tin mãnh liệt vào lời mẹ, dù chỉ là một lời nói dối, đã trở thành sợi dây bền dai buộc chặt Khờ với ngọn núi, thể hiện khao khát tình thân sâu sắc. Qua nhân vật Khờ, Nguyễn Ngọc Tư, bằng giọng văn đậm chất Nam Bộ và lối kể chuyện ngôi thứ nhất đầy cảm xúc, đã khắc họa một mảnh đời bất hạnh nhưng vẫn tràn đầy hy vọng, gợi lên trong lòng người đọc sự xót xa và trăn trở về những giá trị nhân sinh.
Câu 2: Viết bài văn nghị luận về “Lắng nghe chính mình” (khoảng 600 chữ)
Phương pháp làm bài
Xác định yêu cầu:
- Kiểu bài: Nghị luận xã hội
- Dung lượng: Khoảng 600 chữ
- Vấn đề: Lắng nghe chính mình
Cấu trúc bài văn:
- Mở bài: Đặt vấn đề và nêu quan điểm
- Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận
- Kết bài: Khẳng định quan điểm và rút ra bài học
Hệ thống ý chính
Giải thích khái niệm:
- Lắng nghe chính mình là khả năng suy ngẫm, truy vấn bản thân để hiểu rõ hơn về chính mình
- Là khoảnh khắc sống chậm lại, gác mọi bận rộn để đối diện với câu hỏi về bản ngã
Tại sao cần lắng nghe chính mình:
- Giúp tìm ra những điều mình yêu thích, xác định hướng đi tương lai
- Biết được điểm mạnh, điểm yếu để khắc phục và phát huy
- Sống trầm tĩnh hơn, đưa ra quyết định chính xác
- Hiểu và đồng cảm hơn với người khác
Cách thực hiện:
- Dành thời gian ở một mình trong tĩnh lặng
- Sống chậm, trải nghiệm cuộc sống sâu sắc
- Đọc sách giàu tính triết lí
- Tự đặt câu hỏi và lắng nghe câu trả lời từ trái tim
Trong nhịp sống hối hả của thời đại hiện đại, con người thường bị cuốn vào những ồn ào của thế giới bên ngoài mà quên mất việc lắng nghe chính mình. Lắng nghe chính mình không chỉ là một kỹ năng, mà còn là một nghệ thuật, là hành trình khám phá bản thân để sống đúng với giá trị và mong muốn sâu thẳm nhất. Vậy lắng nghe chính mình là gì, và tại sao nó lại quan trọng đến vậy?
Lắng nghe chính mình là khả năng suy ngẫm, truy vấn và đối diện với những cảm xúc, suy nghĩ bên trong để thấu hiểu bản thân. Đó là khoảnh khắc sống chậm lại, tạm gác bỏ những bận rộn thường nhật để nghe tiếng nói từ trái tim, từ những khát khao thầm kín hay những tổn thương cần được chữa lành . Đây không phải là việc đơn giản như soi gương để nhìn ngoại hình, mà đòi hỏi sự tĩnh lặng và chân thành để giao hòa với phần tâm thức sâu kín nhất.
Việc lắng nghe chính mình mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống. Trước hết, nó giúp chúng ta hiểu rõ bản thân, nhận ra điều gì thực sự quan trọng và phù hợp với giá trị cá nhân. Khi biết mình muốn gì, chúng ta có thể định hướng tương lai, lựa chọn con đường đúng đắn trong công việc và cuộc sống . Bên cạnh đó, lắng nghe bản thân còn giúp nhận diện điểm mạnh và điểm yếu, từ đó phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm một cách hiệu quả . Hơn nữa, việc này mang lại sự cân bằng tinh thần, giúp chúng ta sống trầm tĩnh và tỉnh táo hơn trước những biến cố, từ đó đưa ra quyết định sáng suốt . Cuối cùng, khi hiểu rõ chính mình, chúng ta cũng trở nên đồng cảm và bao dung hơn với người khác, bởi ta nhận ra rằng mỗi người đều có những cuộc đấu tranh nội tâm riêng .
Vậy làm thế nào để thực hành lắng nghe chính mình? Đầu tiên, hãy tạo cho bản thân những khoảng lặng trong ngày, dù chỉ 5-10 phút, để ngồi yên và hít thở sâu, loại bỏ sự sao lãng từ các thiết bị điện tử . Thứ hai, tự trò chuyện với chính mình bằng cách đặt những câu hỏi như: “Hôm nay mình đã hạnh phúc chưa?” hay “Điều gì khiến mình lo lắng?”, rồi chân thành lắng nghe câu trả lời từ nội tâm . Ngoài ra, việc ghi chép cảm xúc và hành động cũng là cách để nhận diện những mẫu suy nghĩ tiêu cực lặp lại, từ đó điều chỉnh phù hợp . Đọc sách triết lý hay viết nhật ký cũng là những phương pháp hiệu quả để kết nối sâu sắc hơn với bản thân .
Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ dàng thực hiện điều này. Nhiều người sợ sự yên tĩnh vì lo phải đối mặt với những suy nghĩ thật, nên họ tìm đến các hình thức giải trí nhanh như lướt mạng xã hội để trốn tránh . Đây là một sai lầm cần tránh, bởi nếu không đối diện với chính mình, chúng ta sẽ mãi lạc lối trong những mơ hồ và mông lung về bản thân.
Lắng nghe chính mình là hành trình đòi hỏi kiên nhẫn và tình yêu thương bản thân. Chỉ khi hiểu rõ mình, chúng ta mới có thể sống đúng với con người thật và xây dựng một cuộc đời ý nghĩa. Hãy bắt đầu từ những bước nhỏ, dành cho mình những phút tĩnh lặng mỗi ngày, để nghe tiếng nói từ trái tim. Đó chính là chìa khóa mở ra cánh cửa hạnh phúc và sự tự hoàn thiện.
- Truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư và câu hỏi liên quan
- Đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ phân tích nhân vật Khờ
- Bài văn nghị luận khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ về vấn đề “Lắng nghe chính mình”
- Nắm chắc nội dung, tình huống, nhân vật trước khi trả lời
- Đoạn văn nghị luận: Hoàn cảnh bất hạnh + Tính cách tốt đẹp + Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Bài văn nghị luận: Giải thích khái niệm → Tại sao cần thiết → Cách thực hiện → Mở rộng vấn đề
- Đọc kỹ đề bài trước khi làm
- Phân bổ thời gian hợp lý cho từng câu
- Trình bày rõ ràng, sạch sẽ